|
Chinh
Phụ Ngâm
Nguyên tác
chữ Hán của Đặng Trần Côn |
Đoàn Thị
Điểm diễn nôm |
Thủa trời
đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên!
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ, tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung,
Thành-liền mong tiến bệ Rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vỵ ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non,
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên.
Nhủ rồi tay lại trao liền,
Bước đi một bước lại vin áo chàng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên Sơn.
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà lương
chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch trổi ghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp lại về buồng cũ gối chăn,
Đoái trông theo, đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng, ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này, nghỉ mát phương nao.
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm, xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon,
Ôm yên, gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe, nẻo suối còn sâu,
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm, có hay chăng nhẻ?
Mặt chinh phu, ai vẽ cho nên,
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương.
Chàng từ
sang đông nam khơi nẻo,
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ân dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già cõi chiến trường,
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng aỉ
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay ?
Những mong cá nước vui vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ Vương Tôn,
Cớ sao cách trở nước non?
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu.
Khách phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan san đễ cách hàn huyên bao đành.
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca,
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông,
Nay đào đã quyến gió đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ..
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Dạo sân một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
Thư thường tới người chưa thấy tới,
Bực rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiễn sen này đã nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa vả đương bù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chớ bữa mớm cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân
Này một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới đông nào còn dư.
Kể năm đã: ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thủa ngày xuất giá,
Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng?
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thủa bé vui tươi.
Cậy ai mà gửi tới nơi?
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong,
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa,
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Để chữ gấm, phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền, tin dở còn ngờ,
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya, nương gối, bơ phờ tóc mai.
Há như ai, hôn sai bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước,
Bức rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc chờ đằng đãng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
Sắc cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô,
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay, ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đâu.
Đâu xiết kể muôn sầu, nghìn não,
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan.
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
Bến Ngâu sùi sụt, cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
Gõ sanh ngọc, mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh, mấy phiếm rời tay,
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như đốt buồng gan,
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì aỉ
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẽ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường tới Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thủa Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa,
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi,
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi chòm quán khách,
Rưm rà cây xanh ngất núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ sập sè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu,
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách nghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
Lên xuống lầu thấm thoắt đôi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc nghoảnh lại ngắm mầu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong,
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Lòng chàng biết có như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương,
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương,
Sửa xiêm dạo bước tiện đường,
Ngửa trong xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê Triền buổi có, buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sượng gội cành khô
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôị
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi,
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau,
Nọ thì ả Chức, chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành, lầm lỡ đòi nau.
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đi thấm thoắt qua màu xuân xanh.
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhèo rối tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thủa trước,
E đến khi đầu bạc mà thương,
Mặt hoa nọ, gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua,
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng
thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương,
Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Đôi hoa cũng dính, đôi cây cũng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây.
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên,
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc
tựa son ngăn ngắt,
Sực tý dân dường sắt trơ trơ,
Máu Thiền Vu quắc Nhục Chi,
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung,
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải Bắc treo cung non Đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh,
Đĩnh non kia, đá đề danh,
Triều Thiên vào trước cung đình dâng công.
Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
Tài so Tần, Hoắc, vẹn tuyền,
Tên ghi gác "Khói", tượng truyền đài "Lân"
Nền huân tướng đại cân rạng vẻ
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông
Ân trên tử ấm thê phong
Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
Thiếp chẳng
dại như người Tô phụ,
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
Khi về đeo quả ấn vàng,
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng dũ lớp phong sương,
Vì chàng, tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu,
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén từng thiên,
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thủa thanh bình.
Ngâm nga, mong gửi chữ tình:
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu
|